Đau mắt đỏ thường diễn ra vào mùa hè đến cuối mùa thu, vào mùa mưa, độ ẩm không khí cao hoặc thời điểm giao mùa sức đề kháng yếu bệnh dễ lây lan và bùng phát thành dịch trong cộng đồng. Việc điều trị đau mắt đỏ ở trẻ phụ thuộc vào từng tác nhân gây bệnh khác nhau. Nếu chúng ta không biết cách chăm sóc, phòng và điều trị thì bệnh đau mắt đỏ có thể dẫn đến viêm giác mạc, giảm thị lực lâu dài, ảnh hưởng đến học tập, sinh hoạt và làm việc.
Nguyên nhân chính gây ra bệnh đau mắt đỏ là do virus, 80% là do adenovirus. Ở trẻ đau mắt đỏ có thêm biểu hiện của viêm đường hô hấp trên, viêm mũi họng, ho, hắt hơi, sổ mũi, chảy nước mũi.
Phần lòng trắng của mắt chuyển màu đỏ là dấu hiệu điển hình cảnh báo đau mắt đỏ (Nguồn: Internet)
Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu về bệnh đau mắt đỏ để từ đó có biện pháp phòng, chống bệnh hiệu quả nhất:
1. Bệnh đau mắt đỏ (hay còn gọi là viêm kết mạc) là tình trạng viêm phần lòng trắng trong suốt của mắt (kết mạc nhãn cầu và mi mắt). Bệnh rất dễ mắc, dễ lây lan trong cộng đồng và gây thành dịch. Cho đến nay chưa có vaccine phòng bệnh, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và những người bị đau mắt đỏ rồi vẫn có thể bị nhiễm lại chỉ sau vài tháng khỏi bệnh. Ở trẻ em, bệnh thường xảy ra vào thời điểm chuyển giao mùa, lúc cơ thể của bé khá nhạy cảm nên dễ chịu sự tác động và tấn công bởi virus, vi khuẩn bên ngoài. Đau mắt đỏ không phải là bệnh nguy hiểm, tuy nhiên nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến những biến chứng như trầy xước giác mạc hoặc thậm chí mất thị lực. Việc chẩn đoán sớm và áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhất định có thể giúp hạn chế bệnh phát tán và giảm những biến chứng.
2. Nguyên nhân đau mắt đỏ
Dịch đau mắt đỏ thường do virus gây ra, 80% là Adenovirus, ngoài ra có thể gặp do các nguyên nhân khác như virus Herpes, Thủy đậu, Poxvirus… Trẻ lây bệnh qua tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết từ mắt, mũi, miệng (tiếp xúc trực tiếp với người bệnh, dụi tay vào mắt, sử dụng chung đồ cá nhân với người bệnh…).
3. Triệu chứng đau mắt đỏ
Bệnh thường khởi phát từ 3-7 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh, triệu chứng bao gồm xung huyết kết mạc (đỏ mắt), kích thích chảy nước mắt, mắt có nhiều ghèn rỉ (có thể rỉ trắng, dính nếu bệnh do virus, hoặc có thể rỉ xanh – vàng nếu do bội nhiễm vi khuẩn). Ở trẻ nhỏ có thể đi kèm triệu chứng viêm mũi, họng, viêm đường hô hấp, sốt…
Đặc biệt, ở trẻ em, bệnh có thể xuất hiện giả mạc (là một lớp màng trắng, mỏng phủ lên trên kết mạc gây chảy máu, làm bệnh lâu khỏi hoặc có thể gây tổn thương giác mạc), viêm giác mạc chấm nông.
Một số ít trường hợp có thể bội nhiễm gây biến chứng viêm loét giác mạc, làm ảnh hưởng tới thị lực lâu dài của trẻ.
Để chủ động phòng, chống bệnh đau mắt đỏ, Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế khuyến cáo người dân thực hiện tốt các biện pháp sau:
1. Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng và dung dịch sát khuẩn tay, sử dụng nước sạch.
2. Không đưa tay lên dụi mắt, mũi, miệng.
3. Không dùng chung vật dụng cá nhân như: lọ thuốc nhỏ mắt, khăn mặt, kính mắt, khẩu trang…
4. Vệ sinh mắt, mũi, họng hàng ngày bằng nước muối sinh lý, các thuốc nhỏ mắt, nhỏ mũi thông thường. Đeo khẩu trang khi có các triệu chứng ho, hắt hơi…
5. Sử dụng xà phòng hoặc các chất sát khuẩn thông thường sát trùng các đồ dùng, vật dụng của người bệnh. Vệ sinh bàn ghế, không gian sinh hoạt, vui chơi của trẻ bằng các dung dịch sát khuẩn bề mặt.
6. Hạn chế tiếp xúc với người bệnh hoặc nghi bị bệnh đau mắt đỏ. Nếu mắt chảy nhiều nước mắt, có nhiều ghèn rỉ mắt thì sử dụng khăn giấy hoặc bông gạc y tế (sử dụng 1 lần) để vệ sinh, sau đó bỏ vào thùng rác có nắp đậy để tránh tạo thành nguồn lây cho gia đình và người xung quanh, sát khuẩn tay sau khi vệ sinh mắt.
7. Người bệnh, người nghi bị bệnh đau mắt đỏ cần hạn chế tiếp xúc với người khác.
8. Người có các dấu hiệu đau mắt đỏ cần được nghỉ học/nghỉ làm việc để tránh lây nhiễm cho người xung quanh và lây lan ra cộng đồng; đến cơ sở y tế để được khám, tư vấn, điều trị kịp thời, không tự ý điều trị khi chưa có hướng dẫn của cán bộ y tế để tránh biến chứng nặng.
Tóm lại, bệnh đau mắt đỏ đa phần là bệnh lý lành tính, người bệnh hoàn toàn có thể chăm sóc tại nhà. Để bảo vệ sức khỏe cả nhà và tránh bệnh bùng phát thành dịch lớn chúng ta cần chủ động thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh theo khuyến cáo của Cục Y tế dự phòng và Bộ Y tế.
(Theo nguồn của Cục Y tế dự phòng)